Từ
xưa đến nay, khi nhắc về quả cau thì không một người Việt Nam nào lại không biết
tới. Cũng như ở các nước Đông Nam Á khác,
cau trầu có mặt trong tất cả các buổi lễ cúng, cưới hỏi, trang hoàng, trong
hoàng tộc cũng như ngoài dân gian. Nó "biểu tượng cho sự kính trọng, cho
lòng biết ơn, cho sự tạ lỗi”... Mặt khác, bên cạnh ý nghĩa văn
hóa nhất định của nó quả cau còn có nhiều công dụng trong thực tiễn.
Trong
Đông y, cau có tính hạ khí, hành thuỷ thông đại tiểu trường. Dùng quả cau chữa
được các chứng chương tích, chướng khí, tạ hạ và sát trùng. Vỏ quả trị thuỷ
thũng, lợi tiểu. Hạt trị giun sán, bụng đầy chướng, tả lỵ. Trong quả cau cũng
có nhiều tanin, alcahoit, arecolin. Hạt cau có vị đắng, chát, tính ôn, có tác
dụng diệt trùng, tiêu tích, hành khí, lợi tiểu. Dùng ngoài, bột hạt cau rắc làm
thuốc cầm máu. Hạt cau làm tê liệt thần kinh giun sán, làm giun sán không bám
vào thành ruột được mà bị đẩy ra ngoài. Hạt cau khô dùng hỗ trợ tiêu hóa chữa
viêm ruột.
Chất
chát của cau làm cho chân răng co lại, ôm sát chân răng cho hàm răng chắc,
không lung lay. Hạt cau có tính trị giun nên ăn trầu ít bị nhiễm trùng đường
ruột và ký sinh trùng đường ruột. Tuy nhiên, không nên lạm dụng ăn cau luôn
miệng, vô ý làm phỏng niêm mạc miệng, ứa máu răng, môi nứt khô.
Trước kia,
các thầy thuốc ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ 1, các lương y Ả Rập ở thế kỷ 10 đã công
nhận những giá trị y học của quả cau.
Hoạt chất chính của phần thịt quả là 4 ancaloit là
arecolin, arecaidin, guvaxin, guvacolin chiếm từ 0,1-5 %. Chất arecolin trong thịt
quả cau gây chảy nước bọt và làm tăng bài tiết dịch vị làm co nhỏ đồng tử giúp
giảm áp nhản trong bệnh Glocom. Chất
areclin còn làm tim đập chậm, tăng nhu động ruột và có thể kích thích thần
kinh. Trong cau có một phần tannin ức chế
được enzym chuyển đổi angiotensin nên được xem là chất chống huyết áp.
Trong hạt (phần thịt quả) trái cau có chứa tanin,
trái non có 70% tanin, trái chín còn 15-20 % tanin. Ngoài ra có chứa chất mỡ
14% gồm myristin, olein, laurin và chất đường như sacaroza, mannan,galactan và
muối vô cơ.
Trong một cuộc khảo cứu rộng lớn
trên 100 thảo mộc ở châu Á, hãng Coreana Cosmetics đã tìm ra cau cùng với
riềng, nghệ, cải, đinh hương, đơn bì, đại hoàng… trong số những cây có thể dùng
để chiết xuất chất kháng oxy hoá.
Trước đây, nhiều người dùng vỏ trái
cau chà răng - một vật liệu vừa hữu hiệu vừa dễ kiếm cần được khuyến khích. Các
chất phenol, đặc biệt là ester được đưa vào thuốc trị u khối, chữa các chứng
nhiễm virus. Vì ức chế glycerophosphat deshydrogenase, chúng được cho vào thức
ăn chống béo.
Song song với những khảo cứu y khoa,
kỹ nghệ cũng tìm cách ứng dụng tính chất của cau. Những phenol có khả năng bảo
vệ nucleotid, chống tác dụng phá hoại của enzym được dùng bảo vệ rau quả như
dưa chuột để giữ hương vị. Chúng ức chế urease chế tạo ammoniac trong urea nên
được dùng làm thuốc thơm. Người ta đã làm thuốc nhuộm vải, lụa với phần chiết
từ cau. Tannin được trộn với natrium sulfat, natrium carbonat làm thuốc nhuộm tóc
đen xám. Nhờ chất proanthocyanidin, đặc biệt chất epicatechin-catechin, cau
được hoà với một số chất để làm thuốc kích thích tóc mọc. Một loại giấm giàu
enzym và amin acid, xúc tiến sự tiêu hoá, gồm có một phần hột cau, nước gừng,
cải củ, khoai mài... Thân cau có nhiều lignin, ít hollocellulose, có tính chất
cơ lý học tương đương gỗ cứng thường dùng làm giấy. Vỏ trái cau đem xử lý với
nấm đỏ Phanerochaete chrysosporium tăng số lượng protein lên 100%, nếu để
nguyên cho ủ thì lignin huỷ hoại đến 62% nhưng năng suất khí methan phát ra
tăng lên 48%. Vỏ trái cau dùng đánh răng, vừa rẻ tiền, vừa vệ sinh.
Như vậy, vì quả cau có khá nhiều
công dụng nên ngày nay nó được sử dụng phổ biến không chỉ ở nước ta mà còn
nhiều nước trên thế giới, chủ yếu phục vụ trong thực nghiệm y học và y học cổ
truyền.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét